Lời nói đầu
Truyền hình
là một loại hình truyền thông đại chúng chuyển tải thông tin bằng hình ảnh và
âm thanh về một vật thể hoặc một cảnh đi xa bằng sóng vô tuyến điện.
Truyền hình
xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ XX và phát triển với tốc độ như vũ bão nhờ sự tiến
bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, tạo ra một kênh thông tin quan trọng
trong đời sống xã hội. Ngày nay, truyền hình là phương tiện thiết yếu cho mỗi
gia đình, mỗi quốc gia, dân tộc. Truyền hình trở thành vũ khí, công cụ sắc bén
trên mặt trận tư tưởng văn hóa cũng như lĩnh vực kinh tế xã hội. Ở thập kỷ 50
của thế kỷ XX, truyền hình chỉ được sử dụng như là công cụ giải trí, rồi thêm
chức năng thông tin. Dần dần truyền hình đã trực tiếp tham gia vào quá trình
quản lý và giám sát xã hội, tạo lập và định hương dư luận, giáo dục và phổ biến
kiến thức, phát triển văn hóa, quảng cáo và các dịch vụ khác.
Sự ra đời
của truyền hình đã góp phần làm cho hệ thống truyền thông đại chúng càng thêm
hùng mạnh, không chỉ tăng về số lượng mà còn tăng về chất lượng. Công chúng của
truyền hình ngày càng đông đảo trên khắp hành tinh. Với những ưu thế về kỹ
thuật và công nghệ, truyền hình đã làm cho cuộc sống như được cô đọng lại, làm
giàu thêm ý nghĩa, sáng tỏ hơn về hình thức và phong phú hơn về nội dung.
Ngày 7/9/1970
là ngày phát sóng đầu tiên của chương trình truyền hình Việt Nam. Thấm thoắt đã
35 năm. Ngày 7/9 trở thành ngày kỉ niệm truyền thống của truyền hình Việt Nam.
Từ ngày ấy đến nay, truyền hình Việt Nam đã trưởng thành nhanh chóng và có
những tiến bộ vượt bậc. Từ phát hình đen trắng chuyển sang phát hình màu, từ
phát thử nghiệm chương trình 4 giờ/ ngày vào ban đêm, đến năm 1995 phát 10 giờ/
ngày; đến nay Đài Truyền hình Việt Nam phát với tổng số thời lượng là 200 giờ/
ngày trên 5 kênh VTV1, VTV2, VTV3, VTV4, VTV5 cùng với 4 kênh truyền hình cáp
hữu tuyến và 64 đài phát thanh - truyền hình địa phương. Ngành truyền hình Việt
Nam đã có nhiều nỗ lực vượt bậc nhằm cải tiến, nâng cao chất lượng các chương
trình truyền hình, đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của công chúng.
Truyền hình Việt Nam còn chú trọng đẩy mạnh việc đào tạo đội ngũ cán bộ, công
nhân viên, cán bộ kỹ thuật, đặc biệt là đội ngũ phóng viên, biên tập nhằm nâng
cao tính chuyên nghiệp và sự quy chuẩn của đội ngũ người làm truyền hình hiện
đại.
Như vậy,
cùng với sự phát triển của các loại hình truyền hình, việc nâng cao chất lượng
thông tin trên truyền hình ngày càng trở nên cấp thiết. Tuy nhiên, ở Việt Nam
các tài liệu nghiên cứu về lý luận và thực hành truyền hình phục vụ cho công
tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập ở các trường, khoa còn quá ít ỏi, chưa có
hệ thống, chưa tương xứng với sự phát triển của truyền hình.
Báo chí
truyền hình là môn học cơ sở trong chương trình đào tạo về lý luận và nghiệp vụ
truyền hình tại Khoa Báo chí – Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội. Nhằm giúp cho người dạy và người học có thêm căn cứ khoa
học để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, chúng tôi biên soạn bài giảng về lý
luận và thực hành Báo chí truyền hình, trên cơ sở các bài giảng của giảng viên
về môn học này từ các khóa K36 (khóa 1 của Khoa Báo chí, 1991) đến nay. Tập bài giảng này tập trung trình bày các vấn
đề của báo chí truyền hình như: vị trí, vai trò; lịch sử ra đời phát triển của
truyền hình; khái niệm, đặc trưng; nguyên lý của truyền hình; chức năng xã hội
của truyền hình; kịch bản và kịch bản truyền hình; quy trình sản xuất chương
trình truyền hình; các thể loại báo chí truyền hình; các thuật ngữ truyền hình;
phần phụ lục kèm theo các dạng kịch bản theo thể loại và chương trình truyền
hình.
Trong tập
bài giảng này, chúng tôi sử dụng các nguồn tài liệu của nước ngoài về truyền
hình như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Nga, Đức, Singapo, Australia, Trung Quốc,… và
một số tài liệu của các đồng nghiệp, một số luận văn, khóa luận tốt nghiệp, đề
tài nghiên cứu khoa học của sinh viên, học viên cao học Khoa Báo chí - Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; một số băng tư
liệu về các thể loại, chương trình truyền hình đã được phát trên Đài THVN và
các đài địa phương từ 1995 đến nay.
Tuy nhiên,
do những hạn chế về tư liệu và băng hình cũng như trình độ hiểu biết của tác
giả bài giảng Báo chí truyền hình không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất
định, rất mong được sự đóng góp ý kiến quý báu và bổ ích của các đồng nghiệp và
các bạn trong và ngoài trường.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRUYỀN HÌNH
1, Khái niệm
Hệ thống các phương tiện
truyền thông đại chúng (Mass Communication), hay Mass Media gồm có báo in, báo phát thanh, báo
truyền hình, báo điện tử phát trên mạng Internet, sản phẩm thông tin của chúng
có tính định kỳ hết sức đa dạng và phong phú. Bên cạnh đó còn có những sản phẩm
không định kỳ của truyền thông như các ấn phẩm của ngành xuất bản, các phương
pháp truyền thông trực tiếp như: tuyên truyền miệng, quảng cáo,… Nội dung và
tính chất thông tin đều mang tính phổ cập và có phạm vi tác động rộng lớn trên
toàn xã hội.
Thuật ngữ truyền hình (Television) có nguồn gốc từ tiếng Latinh và
tiếng Hy Lạp. Theo tiếng Hy Lạp, từ “Tele” có nghĩa là ''ở xa'' còn “videre” là
''thấy được'', còn tiếng Latinh có nghĩa là xem được từ xa. Ghép hai từ đó lại
“Televidere” có nghĩa là xem được ở xa. Tiếng Anh là “Television”, tiếng Pháp
là “Television”, tiếng Nga gọi là “Tелевидение”. Như vậy, dù có phát triển
bất cứ ở đâu, ở quốc gia nào thì tên gọi truyền hình cũng có chung một nghĩa.
Truyền hình
xuất hiện vào đầu thế kỉ thứ XX và phát triển với tôc độ như vũ bão nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công
nghệ, tạo ra một kênh thông tin quan trọng trong đời sống xã hội. Ngày nay, truyền
hình là phương tiện thiết yếu cho mỗi gia đình, mỗi quốc gia, dân tộc. Truyền
hình trở thành công cụ sắc bén trên mặt trận tư tưởng văn hóa cũng như các lĩnh
vực kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng.
Ở thập kỉ 50 của thế kỉ XX, truyền hình chỉ
được sử dụng như là công cụ giải trí, rồi thêm chức năng thông tin. Dần dần
truyền hình đã trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý và giám sát xã hội, tạo
lập và định hướng dư luận, giáo dục và phổ biến kiến thức, phát triển văn hóa,
quảng cáo và các dịch vụ khác.
Sự ra đời của truyền hình đã góp phần làm cho
hệ thống truyền thông đại chúng càng thêm hùng mạnh, không chỉ tăng về số lượng
mà còn tăng về chất lượng. Công chúng của truyền hình ngày càng đông đảo trên
khắp hành tinh. Với những ưu thế về kỹ thuật và công nghệ truyền hình đã làm
cho cuộc sống như được cô đọng lại làm giàu thêm ý nghĩa, sáng tỏ hơn về hình
thức và phong phú hơn về nội dung.
Xét theo góc độ kỹ thuật truyền tải có truyền
hình sóng (wireless TV) và truyền hình cáp (CATV). Xét dưới góc độ thương mại
có truyền hình công cộng (public TV) và truyền hình thương mại (commercial TV).
Xét theo tiêu chí mục đích nội dung, người ta chia truyền hình thành truyền
hình giáo dục, truyền hình giải trí,.. Xét theo góc độ kỹ thuật có truyền hình
tương tự (Analog TV) và truyền hình số (Digital TV)
Truyền
hình sóng: (vô tuyến truyền hình- Wireless TV) được thực hiện theo nguyên tắc kỹ thuật như sau: hình ảnh và âm
thanh được mã hóa dưới dạng các tín hiệu sóng và phát vào không trung. Các máy
thu tiếp nhận các tín hiệu rồi giải mã nhằm tạo ra hình ảnh động và âm thanh
trên máy thu hình (ti vi). Còn sóng truyền hình là sóng phát thẳng, vì thế
ăngten thu bắt buộc phải ''nhìn thấy'' được ăngten máy phát và phải nằm trong
vùng phủ sóng thì mứoi nhận được tín hiệu tốt.
Từ những đặc điểm kỹ thuật trên, nên
truyền hình sóng chỉ có khả năng đáp ứng nhu cầu của công chúng bằng các chương
trình cho các đối tượng; không có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu hay dịch vụ cá
nhân.
Truyền
hình cáp: (hữu tuyến
– CATV- viết tắt tiếng Anh là Community Antenna Television) đáp ứng nhu cầu
phục vụ tốt hơn cho công chúng. Nguyên tắc thực hiện của truyền hình cáp là tín
hiệu được truyền trực tiếp qua cáp nối từ đầu máy phát đến từng máy thu hình.
Từ đó, truyền hình cáp trong cùng một lúc có thể chuyển đi nhiều chương trình
khác nhau đáp ứng theo nhu cầu của người sử dụng. Ngoài ra truyền hình cáp còn
phục vụ nhiều dịch vụ khác mà truyền hình sóng không thể thực hiện được.
2, Đặc trưng của truyền hình
Truyền hình mặc dù là một loại hình
báo chí nhưng bên cạnh những đặc điểm chung của báo chí nó còn có những đặc
điểm riêng biệt mang đặc trưng của truyền hình.
2.1, Tính thời sự
Tính thời
sự là đặc điểm chung của báo chí. Nhưng truyền hình với tư cách là một phương
tiện truyền thông đại chúng hiện đại có khả năng thông tin nhanh chóng, kịp
thời hơn so với các loại phương tiện khác. Với truyền hình, sự kiện được phản
ánh ngay lập tức khi nó vừa mới diễn ra thậm chí khi nó đang diễn ra, người xem
có thể quan sát một cách chi tiết, tường tận qua truyền hình trực tiếp và cầu
truyền hình. Truyền hình có khả năng phát sóng liên tục 24/24h trong ngày, luôn
mang đến cho người xem những thông tin nóng hổi nhất về các sự kiện diễn ra,
cập nhật những tin tức mới nhất. Đây là ưu thế đặc biệt của truyền hình so với
các loại hình báo chí khác.
Nhờ các thiết bị kỹ thuật hiện
đại truyền hình có đặc trưng cơ bản là truyền trực tiếp cả hình ảnh và âm thanh trong cùng một thời gian về cùng một sự kiện, sự
việc “khi sự kiện diễn ra phát thanh báo tin, truyền hình trình bày và báo in
giảng giải nó”.
2.2, Ngôn ngữ truyền hình là ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh
Một ưu thế
của truyền hình chính là đã truyền tải cả hình ảnh và âm thanh cùng một lúc.
Khác với báo in, người đọc chỉ tiếp nhận bằng con đường thị giác, phát thanh
bằng con đường thính giác, người xem truyền hình tiếp cận sự kiện bằng cả thị
giác và thính giác. Qua các cuộc nghiên cứu người ta thấy 70% lượng thông tin
con người thu được là qua thị giác và 20% qua thính giác. Do vậy truyền hình
trở thành một phương tiện cung cấp thông tin rất lớn, có độ tin cậy cao, có khả
năng làm thay đổi nhận thức của con người trước sự kiện.
2.3, Tính phổ cập và quảng bá
Do những ưư
thế về hình ảnh và âm thanh, truyền hình có khả năng thu hút hàng tỉ người xem
cùng một lúc. Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ truyền hình ngày
càng mở rộng phạm vi phủ sóng phục vụ được nhiều đối tượng người xem ở vùng
sâu, vùng xa. Tính quảng bá của truyền hình còn thể hiện ở chỗ một sự kiện xảy
ra ở bất kì đâu được đưa lên vệ tinh sẽ truyền đi khắp cả thế giới, được hàng
tỉ người biết đến. Ngày nay ngồi tại phòng nhưng người ta vẫn có thể nắm bắt
được sự kiện diễn ra trên thế giới.
2.4, Khả năng thuyết phục công chúng
Truyền hình
đem đến cho khán giả cùng lúc hai tín hiệu cơ bản là hình ảnh và âm thanh đem
lại độ tin cậy, thông tin cao cho công chúng, có khả năng tác động mạnh mẽ vào
nhận thức của con người. Truyền hình có khả năng truyền tải một cách chân thực
hình ảnh của sự kiện đi xa nên đáp ứng yêu cầu chứng kiến tận mắt của công
chúng. “Trăm nghe không bằng mắt thấy”, chính truyền hình đã cung cấp những
hình ảnh về sự kiện thỏa mãn nhu cầu “thấy” của người xem. Đây là lợi thế lớn
của truyền hình so với các loại hình báo in và phát thanh.
2.5, Khả năng tác động dư
luận xã hội mạnh mẽ và trở thành diễn đàn của nhân dân
Các chương
trình truyền hình mang tính thời sự, cập nhật, nóng hổi, hấp dẫn người xem bằng
cả hình ảnh, âm thanh và lời bình, vừa cho người xem thấy được thực tế của vấn
đề vừa tác động vào nhận thức của công chúng. Vì vậy, truyền hình có khả năng
tác động vào dư luận mạnh mẽ. Các chương trình của Đài truyền hình Việt Nam như
các chuyên mục “Sự kiện và bình luận”, “Đối thoại trực tiếp”, “Chào buổi sáng”
của ban Thời sự VTV1 không chỉ tác động dư luận mà còn định hướng dư luận,
hướng dẫn dư luận phù hợp với sự phát triển của xã hội và các đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước.
Ngày nay, do sự phát triển của
khoa học công nghệ, công chúng của truyền hình ngày càng đông đảo, nên sự tác
động dư luận ngày càng rộng rãi. Chính vì thế,truyền hình có khả năng trở thành
diễn đàn của nhân dân. Các chuyên mục “ý kiến bạn xem truyền hình”, “với khán
giả VTV3”, “Hộp thư bạn xem truyền hình” ,… đã trở thành cầu nối giữa người xem
và những người làm truyền hình. Qua đó người dân có thể nêu lên những ý kiến
khen chê, ủng hộ, phản đối, góp ý phê bình về các chương trình truyền hình của
đài truyền hình hoặc gửi đi những thắc mắc, bất cập, sai trái ở địa phương. Rất
nhiều vụ tham nhũng, lạm dụng quyền hạn
đã được người làm báo làm sáng tỏ qua sự phản ánh của nhân dân.
3, Đặc điểm của báo chí
truyền hình và sản phẩm của truyền hình.
3.1, Về nội dung kỹ thuật
Trong các
loại hình truyền thông đại chúng, truyền hình là phương
tiện ra đời muộn, tuy nhiên nó là sản phẩm của nền văn minh khoa học công nghệ
phát triển. Truyền hình đã thừa hưởng kinh nghiệm và phương pháp tạo hình,
tiếng của điện ảnh và phát thanh. Ở truyền hình có sự khái quát triết lý của
báo in, tính chuẩn xác cụ thể bằng hình ảnh, âm thanh của điện ảnh, phát thanh,
tính hình tượng của hội họa, cảm xúc tư duy của âm nhạc. Sự phát triển của các
phương tiện kỹ thuật công nghệ giúp truyền hình tạo ra phương pháp mới trong
truyền đạt thông tin. Truyền hình là loại hình truyền thông có cac yếu tố kỹ thuật
hiện đại, là sự kết hợp giữa: kỹ thuật + mỹ thuật + nghệ thuật + kinh tế + báo
chí.
3.2, Về tư duy và sáng tạo tác phẩm
Mỗi loại
hình truyền thông đại chúng đều có những đặc thù riêng. Nếu chỉ xét trên phương
diện quá trình làm ra một sản phẩm, ở báo in mỗi tác phẩm, mỗi bài báo có thể
là sản phẩm riêng, là sự sáng tạo riêng của mỗi cá nhân, mỗi nhà báo. Nhưng để
sáng tạo một tác phẩm truyền hình còn công phu hơn nhiều, đó là đứa con tinh
thần của cả một tập thể, đạo diễn, biên kịch và những người làm kỹ thuật. Sản
phẩm đó thể hiện ý kiến thống nhất của từng thành viên trong đoàn làm phim,
giữa người biên tập và người quay phim. Vì vậy đối với báo in, nhà báo có thể
viết đề cương rồi viết luôn thành bài, còn ở truyền hình do tính chất đặc thù
quy định, đề cương đó được thể hiện ở kịch bản. Kịch bản là sương sống cho một
tác phẩm truyền hình, đồng thời tạo ra sự thống nhất giữa đạo diễn và quay phim
trong quá trình làm phim, sự ăn ý giữa hình ảnh và lời bình
4, Những yếu tố cơ bản trong truyền hình
4.1, Lượng thông tin
Do trực
quan cảm giác truyền hình rất hạn chế lượng thông tin lý luận và tư duy trừu
tượng. Ký hiệu thông tin truyền hình thuộc ký hiệu đồng nhât (sự phù hợp hoàn
toàn giữa nội dung ký hiệu và vật thể mà ký hiệu đại diện), thông tin trong truyền
hình thường mang tính cụ thể, dễ hiểu bằng hình ảnh, âm thanh tự nhiên, có tính
thuyêt phục cao.
4.2, Hình ảnh trong truyền hình
Hình ảnh
trong truyền hình vừa là phương tiện vừa là nội dung thể hiện ý đồ tư tưởng của
tác phẩm. Hình ảnh trong truyền hình phản ánh không gian ba chiều lên mặt phảng
hai chiều của truyền hình. Khác với hình ảnh tĩnh tại của các nghệ thuật tạo
hình như hội họa, nhiếp ảnh. Hình ảnh trong truyền hình là hình ảnh động có
thực đã qua xử lý kỹ thuật
Năm 1828, nhà vật lý người Bỉ
J.Plateau đã chứng minh nguyên lý lưu ảnh trên võng mạc của mắt người và chính
ông là người đã xác định nguyên lý cơ bản của nghệ thuật thứ bảy. Nguyên lý đó
là sự biến đổi những hình ảnh tĩnh của nhiếp ảnh thành những hình ảnh động của
điện ảnh 24 hình/giây và sau này, truyền hình với việc truyền và tái tạo hình
ảnh điện tử 25 hình / giây. Ở điện ảnh và truyền hình, hình ảnh được tái tạo
sinh động, liên tục về quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng, còn ở nhíêp
ảnh, hình ảnh là sự tái hiện cuộc sống trong khoảng khắc. trong tác phẩm truyền
hình, hình ảnh không chỉ mô tả sự họat động của con người mà còn giúp khán giả
“tham gia” sự kiện. Chỉ cần ngồi tại chỗ với chiếc máy thu hình, người xem có
thể biết được sự việc xảy ra xung quanh mình hoặc cách xa mình hàng vạn cây số,
hàng năm ánh sáng. Truyền hình đã kế thừa kinh nghiệm của điện ảnh về cỡ cảnh,
góc độ máy, động tác máy và nghệ thuật Montage.
Các cỡ cảnh chính trong truyền
hình là: toàn cảnh, trung cảnh, cận cảnh, Với các cỡ cảnh này, truyền hình có
thể thỏa mãn nhu cầu muốn biết cái gì đang xảy ra, nó xảy ra như thế nào của
khán giả. Mặt khác qua các cỡ cảnh tác giả có thể bộc lộ được thái độ tâm lý
của con người trong sự kiện đó. Qua các góc quay cao thấp, chính diện, ¾ góc độ chủ quan và khách quan, các tác phẩm
truyền hình có thể giúp cho người xem “tham gia” sự kiện hay “đứng trên” nhìn
vào sự kiện.
Tuy nhiên, hình ảnh trong truyền
hình có nhiều điểm khác hình ảnh trong phim truyện. Mục đích của các cảnh trong
các tác phẩm truyền hình là thông tin thời sự và xác thực. Tính thời sự, tính
phổ biến không thể thiếu được trong các tác phẩm báo chí. Còn điện ảnh, với mục
đích giải trí, với phương pháp tái tạo cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật,
việc hư cấu là không thể xóa bỏ. Bởi vậy, khi làm phim truyện, người ta phải
mất nhiều thời gian dàn cảnh, bố trí đạo cụ, phục trang, hóa trang…. Trong khi
đó, người phóng viên khi quay phim phóng sự hay tin truyền hình, ít khi có điều
kiện dàn dựng hiện trường, ít có góc độ thời gian để chọn góc độ, ánh sáng.
Thậm chí khi công chúng phát hiện ra sự dàn dựng giả tạo, tính thuyết phục của
tác phẩm truyền hình sẽ giảm sút.
Truyền hình là phương tiện quan
sát trực tiếp cuộc sống của mỗi gia đình, khả năng trực quan có ảnh hưởng rất
lớn tới quá trình nhận thức của con người. Chỉ riêng một khuôn hình thôi cũng
có thể truyền đạt trực tiếp hình ảnh của sự vật cụ thể. Trong các tác phẩm
truyền hình , mỗi hình ảnh đều phải bao hàm một ý nghĩa, một nội dung nào đó
hoặc là nguyên nhân, diễn biến hoặc là kết quả của quá trình phát triển sự kiện
trong cuộc sống. Các hình ảnh liên kết
với nhau theo tuyến tính thời gian. Hiình ảnh trong tác phẩm truyền hình là
phương tiện để tác giả biểu thị ý đồ, tư tưởng: “ bản thân sự thể hiện hình ảnh
đã là nội dung, là hành động rồi và vì vậy, nó hàm chứa những nguyên nhân của
chính cách xây dựng khuôn hình, hoặc thay thế khuôn hình này bằng một khuôn
hình khác.”
Ý nghĩa của hình ảnh trong tác
phẩm truyền hình thể hiện ở chỗ cảnh quay cho xem cái gì, góc quay và động tác
máy có ý nghĩa như thế nào, tác giả muốn biểu lộ ý đồ qua góc quay này. Khả
năng biểu hiện của hình ảnh trong tác phẩm truyền hình còn thể hiện ở mối liên
hệ trong các hình ảnh. Qua phương pháp Montage, nội dung tự thân của mỗi hình
ảnh phối hớp với nhau, tạo ra nội dung thông tin mới mang tính tổng thể. Sự sắp
xếp hình ảnh trong quá trình truyền đạt thông tin giúp con người cảm nhận được
tính đa chiều, lập thể trong mỗi sự kiện, vấn đề, số phận con người. Tư duy làm
khán giả phát hiện được tính ẩn dụ của hình ảnh, của các hiện tượng lắp ráp và
qua đó biểu hiện được mối quan hệ của sự kiện, sự vật.
Cũng như các loại hình “nghệ
thuật ống kính” khác (nhiếp ảnh, điện ảnh) truyền hình phải lựa chọn những hình
ảnh truyền thông đắt nhất để phản ánh nét bản chất của vấn đề.
Quá trình xử lý hình ảnh trong tác phẩm truyền hình phải phù hợp với điều
kiện và môi trường giao tiếp thông tin (trong gia đình với khoảng cách gần và
màn ảnh). Thông thường để hiểu được nội dung một cận cảnh, người ta cần từ 2-5
giây, để hiểu được nội dung trung cảnh, người ta cần 5-8 giây, còn toàn cảnh
lượng thời gian còn nhiều hơn nữa. Hình ảnh trong các tác phẩm truyền hình
phải tuân thủ theo nguyên tắc cảm nhận
như thói quen quan sát khuôn hình từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, quy
luật hình khối, xa gần, cân đối đường nét, màu sắc, kích thước sự vật, đường
vàng (đường chéo), đường mạch, điểm mạch, chiều vận động của đối tượng.
4.3, Âm thanh
Âm thanh là những yếu tố tồn tại khách quan
trong đời sống xã hội. Nó đóng vai trò quan trọng trong quá trình thông tin,
truyền hình đã kế thừa kinh nghiệm xử lí, thể hiện âm thanh của phát thanh. Ba
yếu tố của âm thanh (lời bình, tiếng động, âm nhạc) được sử dụng trong truyền
hình nhằm thông tin phản ánh cuộc sống.
Nhờ sự trợ giúp của âm thanh tác phẩm truyền hình trở nên sống động chư
bản thân cuộc sống. Âm nhạc trong bản thân tác phẩm truyền hình phải là âm
thanh từ cuộc sống thực tế không được dàn dựng, giả tạo bởi mục đích của các
tác phẩm truyền hình là những hình ảnh và âm thanh ghi lại hơi thở, động thái
của cuộc sống. Tính xác thực trong âm thanh truyền hình là sức mạnh của thể
loại này.
Lời bình trong tác phẩm truyền hình là sự bổ
sung cho những gì người xem thấy trên màn hình chứ không phải những gì họ đã
nhìn thấy. Lời bình được tiến hành song song với hình ảnh. Lời bình ( thuyết
minh) bắt đầu hình thành trong giai đoạn xây dựng kịch bản. Lời thuyết minh
phải nảy sinh không trước thì cũng đồng thời với việc xây dựng kịch bản. Lời
thuyết minh phải truyền đạt được nội dung tư tưởng của phim. Vậy lời thuyết
minh phải đạt được những yêu cầu sau: phải giúp người xem tổng hợp, khái quát
được ý nghĩa của sự việc, sự kiện phản ánh trong tác phẩm của truyền hình.
4.4, Tiếng động hiện trường:
Tiếng động hiện trường bao gồm âm thanh của
thiên nhiên ( mưa, gió, nước chảy…), âm thanh do sinh hoạt con người tạo nên(
tiếng dụng cụ lao động, máy móc, tiếng reo hò…), tiếng động nhân tạo… Có người
cho rằng: “ Phim tài liệu, phóng sự truyền hình không có tiếng động khác nào
phim câm”.
Rõ ràng tiếng động sẽ làm tăng sự gợi cảm, tính chân thực của
tác phẩm truyền hình nhằm tác động vào
nhận thức, tình cảm của người xem truyền hình. Tuy nhiên, việc sử dụng tiếng
động phải đúng cường độ, đúng lúc. Sử
dụng tiếng động hiện trường không tốt sẽ làm giảm hiệu quả của tiếng động truyền hình. Việc sử dụng tiếng động quá to, át lời bình sẽ gây cảm giác khó chịu
cho khán giả. Mặt khác, tiếng động trong
các tác phẩm truyền hình không nên là tiếng động giả tạo như trong phim truyện.
Theo kinh nghiệm của những nhà làm phim
Canada thì trong phim phóng sự tài liệu Canada trước đây: 90% là lời bình, 5%
là phỏng vấn, 1% là tiếng động. Sau đó một thời gian tỉ lệ này đã thay đổi: 80%
là lời bình, 15% phỏng vấn, 5% tiếng động. Hiện nay 40% lời bình, 40% phỏng
vấn, 20% tiếng động. Điều này chứng tỏ tiếng động hiện trường rất quan trọng
trong phim phóng sự truyền hình.Vấn đề là sử dụng tiếng động hiện trường như
thế nào cho hiệu quả, tạo được sự hấp dẫn đối với người xem.
4.5, Âm nhạc:
Âm nhạc là một trong ba yếu tố quan trọng của
tác phẩm truyền hình. Âm nhạc trong tác phẩm truyền hình có tác dụng làm tôn
thêm hình ảnh và sự kiện, không chỉ lúc nào cũng vang lên mà chỉ sử dụng lúc
cần thiết. Mỗi bản nhạc khi sử dụng phải phù hợp với kết cấu, ý đồ cũng như chủ
đề tư tưởng của tác phẩm truyền hình. Âm nhạc thường xen kẽ tiếng động hiện
trường. Âm nhạc cũng phải có kịch tính gợi cảm chứ không chỉ minh hoạ cho phim.
Không thể sử dụng âm nhạc một cách tuỳ tiện mà phải phụ thuộc vào nội dung,
cách thể hiện hình ảnh trong phim.
Bạn muốn có bản photo thì liên hệ: 0913 668 129
Bạn muốn có bản photo thì liên hệ: 0913 668 129
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét