1, Nguyên lý truyền hình
Nguyên lý cơ
bản của kỹ thuật truyền hình có thể được giải thich một cách vắn tắt như sau:
- Hình ảnh cần truyền được camera điện
tử (video camera) biến đổi thành tín hiệu mang thông tin về độ sáng tối và màu
sắc của vật. Tín hiệu này được gọi là tín hiệu hình hay tín hiệu Video.
- Tín hiệu hình sau khi được khuếch
đại, xử lý sẽ được truyền đi trên sóng truyền hình nhờ máy phát hình hoặc hệ
thống cáp
- Tại nơi nhận máy thu hình tách tín
hiệu hình nhận được từ sóng truyền hình rồi đưa đến đèn hình để biến đổi ngược
lại thành hình ảnh tái hiện trên màn hình.
- Đương nhiên phần âm thanh đi kèm với
hình ảnh cũng được biến đổi thành tín hiệu rồi cũng được truyền đi cùng tín
hiệu hình. Tại nơi thu tín hiệu âm thanh được đưa ra loa để tạo ra âm thanh.
Hệ thống
truyền hình đen trắng
chỉ có thể truyền đi và tái hiện được hình ảnh đen trắng, tức là độ sáng tối
của hình ảnh.
Hệ thống
truyền hình màu ngoài việc truyền đi và tái hiện hình
ảnh đen trắng còn phải truyền đi tái hiện màu sắc của vật.
Để xây dựng
hệ thống truyền hình màu, người ta dựa trên cơ sở nguyên lý ba màu cơ bản. Nội
dung của nguyên lý này như sau:
Mọi màu sắc
đều có thể phân chia thành ba thành phần mà cơ bản là: màu đỏ (R), màu xanh (B)
và màu xanh lá cây (G).
Hay nói cách
khác, bất kỳ một màu sắc nào có trong tự nhiên cũng đều có thể tạo ra được bằng
cách ba màu đỏ, xanh là xanh lá cây theo những tỷ lệ thích hợp.
Trên cơ sở
quá trình hoạt động của hệ thống truyền hình màu có thể mô tả vắn tắt gồm năm
quá trình vật lý sau:
1. Hình ảnh nhiều màu cần truyền tách ta
thành ba ảnh một màu cơ bản: ảnh màu đỏ, ảnh màu xanh và ảnh màu xanh lá cây.
2. Biến đổi ba ảnh màu cơ bản thành ba
tín hiệu điện mang thông tin màu cơ bản tương ứng Er, Eb, Eg
3. Truyền các tín hiệu màu tới nơi thu
4. Tại nơi thu các tín hiệu này được
biến đổi ngược lại thành ba ảnh màu cơ bản
5. Tổng hợp (cộng) ba ảnh màu cơ bản
thành một ảnh nhiều màu
Trong việc
truyền các tín hiệu màu đi, người ta không truyền từng tín hiệu màu trên các
kênh truyền riêng rẽ mà từ ba tín hiệu màu Er, Eb, Eg người ta mã hóa chúng
thành một tín hiệu video màu tổng hợp rồi mới truyền đi chỉ trên một kênh
truyền. Căn cứ vào phương pháp mã hóa tín hiệu video màu mà xuất hiện các hệ
truyền hình khác nhau. Trên thế giới hiện nay tồn tại ba hệ truyền hình màu cơ
bản là hệ:NTSC, PAL, SECAM.
Điều hiển
nhiên là tín hiệu truyền hình màu phát đi được mã hóa theo hệ màu nào thì phải
dùng máy thu có bộ giải mã màu có hệ tương ứng.
Quét
hình điện tử:
Khác với kỹ
thuật điện ảnh, trong kỹ thuật truyền hình, người ta không truyền nguyên vẹn cả
một hình ảnh (khuôn hình) đi tức thời mà hình ảnh cần truyền được
phân thành những phân tử rất nhỏ gọi là điểm hình. Những điểm hình này
được xếp theo từng dòng là 525 dòng (hệ FCC) và 625 (hệ CCIR hoặc OIRT).
Nhờ hệ thống
quét hình điện tử camera các giá trị sáng tối của từng điểm hình được biến đổi
thành tín hiệu video rồi truyền đi với tốc độ quét ra 1750 dòng (hệ FCC) hoặc
15625 dòng (hệ CCIR hoặc OIRT) trong một giây.
Để tạo cảm
giác hình ảnh chuyển động liên tục người ta cũng truyền đi 30 hình (hệ FCC)
hoặc 25 hình (hệ CCIR và OIRT) trong một giây.
Để tái hiện
hình ảnh ở trên màn hình, trong máy thu hình (TV) cũng có một hệ thống quét
hình làm việc với tốc độ quét như ở camera. Nếu việc quét ở máy thu hình không
chính xác như ở camera (không đồng bộ) thì trên màn hình thu ta sẽ thấy hình bị
đổ hoặc rung theo chiều ngang (thường nói là mất đồng bộ dòng) hoặc hình bị trôi
xuống (mất đồng bộ mặt).
2, Các thiết bị truyền hình
Hệ
thống truyền hình gồm rất nhiều thiết bị điện tử thực hiện các chức năng khác
nhau: tạo tín hiệu hình, gia công xử lý tín hiệu, tạo các dạng kỹ xảo truyền
hình, phát sóng, ghi, thu tín hiệu hình. Ngoài ra còn có cả các thiết bị âm
thanh, ánh sáng, trường quay,…
2.1, Video cmera
Video camera hoặc camera truyền hình là loại thiết bị điện tử
có chức năng biến đổi hình ảnh của vật quay thành tín hiệu video
Có nhiều loại camera: loại chuyên dùng trong
các studio truyền hình, loại này có kích thước lớn, cấu tạo phức tạp nhưng lại
cho chất lượng hình ảnh hoàn hảo như: độ nét cao, màu sắc trung thực.
Có loại camera vừa dùng được trong các sudio,
vừa dễ dàng mang đi lưu động ngoài trời, loại này có kích thước gọn, trọng
lượng nhỏ, thao tác không mấy khó khăn, thuận tiện cho phóng viên truyền hình
đi lưu động. Loại camera lưu động (portable camera thường có kèm theo một máy
ghi hình(portable video cassette recorder) để ghi tín hiệu video lấy từ camera lên
băng từ video. Loại này được dùng cả với ácquy.
Để gọn nhẹ hơn nữa, hiện nay người ta còn sản
xuất loại máy gọi là CAMCORDER gồm hai phần: camera và máy ghi âm (recorder)
lắp ghép với nhau, khi cần có thể tháo rời thành hai máy dùng riêng biệt.
Để phục vụ cho những người không làm truyền
hình chuyên nghiệp, người ta sản xuất loại máy quay video lưu động (video
movie) với nhiều chủng loại và kích thước khác nhau. ở loại này cả hai phần
camera và máy ghi hình đều được đặt trong một vỏ chung.
Video Movie
thường được thiết kế gọn nhẹ, nhiều chức năng điều khiển tự động, thuận tiện
cho người sử dụng, không đòi hỏi người sử dụng phải có kiến thức sâu về kỹ
thuật
Trong một
Video camera thường có các bộ phận chính: ống kính, thân camera, ống ngắm hình.
2.1.1, Ống kính (Lens)
Ống kính của video camera làm nhiệm vụ hồi tụ
hình ảnh lên màn cảm quang của bộ phận thu hình điện tử nằm bên trong thân
camera. Cấu tạo của ông kính video camera cũng tương tự như ống kính của máy
ảnh hoặc máy quay phim. Ta có thể đổi kích thước của khẩu độ đóng mở ống kính
(IRIS DIAPHAM) để ánh sáng vào màn cảm
quang nhiều hay ít mà cho hình ảnh rõ hay mờ theo ý muốn.
Nhiều camera có bộ phận bù trừ ánh sáng giúp
ta khắc phục vấn đề ngược sáng khi quay.
Tất cả các video camera đều sử dụng ống kính
zoom (ống kính đa tiêu cự) Zoom có tiêu cự thay đổi liên tục, giúp ta dễ dáng
thay đổi khuôn hình (toàn cảnh, trung cảnh hoặc cận cảnh) mà không cần thay đổi
khoảng cách từ camera đến cảnh vật cần quay. Bộ phận lấy nét (Focus) giúp điều
chỉnh để hình ảnh cần quay hội tụ vào màn cảm quang cho hình ảnh được nét.
Các cơ chế điều chỉnh khẩu độ ống kính
(Iris), Zoom và Focus có thể thực hiện bằng tay (Manual) hoặc tự động (Auto)
bằng các phím điều khiển mô tơ tương ứng.
Nhiều Video camera lắp thêm một kính phóng
đại cho phép quay được cảnh vật có chi tiết nhỏ (cơ chế MACRO).
2.1.2, Thân Camera
Thân Camera chứa ống thu hình (pickup – tube)
và các mạch điện tử. Ống thu hình làm nhiệm vụ biến đổi ánh sáng thành tín hiệu
Video. Ngày nay trong nhiều camera ống thu hình được thay thế bằng bộ phận cảm
quang ghép điện tích (CCD- Chip), có kích thước cực kỳ nhỏ. CCD – Chip có ưu
điểm gọn nhẹ, tiêu thụ điện ít, chịu chấn động tốt, ít bị hư hỏng khi bị ánh
sáng mạnh chiếu vào, không bị hiện tượng lưu hình (hình bị kéo vệt) khi ánh
sáng yếu.
Đối với camera màu, trước ống kính thu hình
có lắp hệ thống lăng kính để tách ánh sáng thành ba dải ánh sáng màu R, G, B.
Phía trước hệ thống lăng kính, nơi ống kính
lắp với thân camera còn đặt các kính biến đổi nhiệt độ màu (filten) để bù lại
sự thay đổi điều kiện chiếu sáng.
Các mạch điện tử bảo gồm các mạch tạo xung
quét hình, mạch sửa méo, trong các camera màu có các mạch mã hóa màu. Ngoài ra
còn có các mạch điện tử tạo tín hiệu chuẩn (sọc màu), các tín hiệu cảnh báo,
tạo ký tự để chỉ thị trạng thái làm việc của máy,… Mạch khuếch đại tín hiệu với chuyển mạch đặt
bên ngoài camera có ký hiêu kà GAIN cùng các nấc chỉ 0dB, 6dB, 9dB, 18dB,.. cho
phép tăng mức tín hiệu video khi quay cảnh chiếu sáng. (Lưu ý, khi tăng tốc độ
khuếch đại đồng thời với mức nhiễu trên hình cũng tăng theo).
Trong các video camera không chuyên nghiệp
đôi khi còn có thêm các mạch tạo, các dạng kỹ xảo đơn giản.
Điều cần chú ý, khi sử dụng ngoài việc chỉnh
lấy nét (Focus), để có được màu chính xác khi quay cần chọn đặt các filten ở
các vị trí thích hợp và nhất thiết phải chỉnh cân bằng trắng
(While Balance) phù hợp với điều kiện ánh sáng.
2.1.3, Kính ngắm hình (Viewfinder)
Phần lớn các
Video camera đều có một kính ngắm hình điện tử, hầu hết là đen trắng
Thực chất nó
gần giống như một chiếc tivi đen trắng thu nhỏ giúp cho người quay phim quan
sát được hình ảnh trên màn hình để bố
cục khuôn hình, kiểm tra độ nét chất lượng hình quay. Trên kính ngắm hình
thường có núm điều chỉnh độ sáng tối (Brightness) và độ tương phản (Contrast).
Ngoài các bộ
phận chính trên, ở các camera lưu động thường gắn thêm một micro để tiện ghi âm
thanh đồng bộ với hình ảnh.
Đi kèm với
video camera còn có thể có các thiết bị hỗ trợ như bộ phối hợp nguồn (AC camera
adaptor) hoặc bộ điều khiển camera (CCU – Camera Control Unit).
2.1.4, Sử dụng camera
Video camera có rất nhiều loại khác nhau, do vậy việc sử dụng
đúng và không để xảy ra các hư hỏng đáng tiếc, kéo dài tuổi thọ của chúng và
khai thác có hiệu quả tính năng của camera; trước khi dùng cần đọc kỹ các tài
liệu hướng dẫn sử dụng (đi kèm theo máy). Tốt nhất là nên nhờ những người có
kinh nghiệm, có kỹ thuật kiểm tra và hướng dẫn trước.
Trong tài liệu hướng dẫn chỉ rõ:
- Các thông số kỹ thuật như: độ nhạy,
độ chiếu sáng tối thiểu, chuẩn), độ phân giải, hệ màu, nguồn điện nuôi, công
suất tiêu thụ, kích thước, trọng lượng, điều kiện làm việc cho phép,..
- Các phụ kiệ kèm theo máy hoặc cần mua
thêm nếu muốn mở rộng khả năng hoạt động của máy.
- Vị trí, chức năng các bộ phận, các chuyển
mạch, phím bấm, vận hành máy.
- Các ghép nối máy, các phương thức,
quy trình khai thác máy.
- Cách bảo quản và các hiện tượng trục
trặc kỹ thuật thường gặp và cách xử lý,…
2.2, Máy ghi hình (Video cassetle
recorder)
Trong kỹ thuật truyền hình hiện nay để ghi tín hiệu video
phần lớn đều dùng máy ghi hình từ tính (Video tape recorder hoặc video
recorder) ghi lên băng từ (video tape). Nguyên lý ghi đọc trên băng từ của máy
ghi hình về cơ bản giống như máy ghi âm. Song do đặc điểm của tín hiệu Video có
giải tần số rất rộng so với dải tần số của tín hiệu âm thanh nên trong nguyên
tắc làm việc và kết cấu máy có nhiều điểm khác biệt so với máy ghi âm như:
- Trong các máy ghi hình đều có hệ
thống mạch điện từ xử lý đặc biệt đối với tín hiệu Video (đen trắng và màu)
trước khi ghi lên băng từ hoặc đọc băng từ ra.
- Các đầu từ ghi đọc tín hiệu (video
head) có kích thước rất nhỏ, mảnh, khe từ hẹp và gắn trên trống đầu từ quay với
tốc độ 25 hoặc 30 vòng/giây.
- Trên băng từ tín hiệu Video được ghi
thành những vệt từ có bề rộng rất nhỏ và nằm trên một góc anpha từ 5 - 7 độ so
với mép băng.
- Tín hiệu âm thanh được ghi dọc theo
một mép băng từ. Còn dọc theo mép băng thứ hai được ghi tín hiệu điều khiển
(CLT) dùng để làm chuẩn điều chỉnh tốc độ kéo băng khi đọc.
- Có hệ thống tự động ổn định tốc độ
kéo băng và tốc độ quay trống đầu từ (hệ thống servo) đảm bảo cho tín hiệu
video được ghi chính xác ở những vị trí nhất định trên băng từ và các đầu từ video đọc đúng vệt từ đã ghi.
- Có hệ thống dàn băng để kéo băng từ
hộp ra, ôm lấy trống đầu từ khi ghi, đọc băng và thu băng vào hộp băng khi dừng
máy.
- Có hệ thống điều chỉnh tự động nhờ
một IC điều khiển các hoạt động của máy thực hiện chính xác, nhịp nhàng. Ngoài
ra trong các máy ghi hình dân dụng để thuận tiện cho người sử dụng, người ta
còn lắp thêm đông hồ điện tử, bộ phận hẹn giờ, bộ thu tín hiệu truyền hình…
Trên thế
giới hiện nay tồn tại rất nhiều máy ghi hình do nhiều hãng sản xuất và ngay
trong cùng một hãng cũng sản xuất nhiều loại. Chúng có thể khác nhau về nhiều
mặt: về cỡ băng (độ rộng băng) sử dụng, như hệ thống Umatic dùng ¾ inch (1 inch
= 2,54cm), hệ VHS, Betamax dùng băng ½ inch (12,7mm), hệ video dùng băng 8mm;
các hệ máy này còn khác nhau về kết cấu máy, các mạch điện tử xử lý tín hiệu,
hệ màu, hệ thống dàn băng, kích thước đầu từ video,…
Do vậy,
một băng được ghi ở hệ máy, hệ tiêu chuẩn kỹ thuật nào thì chỉ có thể đọc được
trên các máy có hệ tiêu chuẩn cùng loại.
Vì có quá
nhiều loại máy ghi hình, nên khi sử dụng cần tìm hiểu kỹ qua các tài liệu hướng
dẫn sử dụng của máy hoặc nhờ những người có chuyên môn, kinh nghiệm hướng dẫn
cụ thể.
Trong
việc sử dụng máy ghi hình càn lưu ý tránh để máy bị bẩn bụi. Đặc biệt là vấn đề
bảo quản băng cần tránh để bị rách, ướt, ẩm; nếu bị ẩm, băng dễ bị dính, mốc,
rã bột từ; khi bột từ bị rã, mốc có thể bịt kín khe làm việc của đầu từ vốn đã
rất hẹp, khiến cho không thể ghi, đọc được.
Băng để ở
nơi nóng quá cũng dễ làm cho mép băng bị quăn, khiến việc ghi đọc tín hiệu điều
khiển không được hoặc sai, dẫn tới tốc độ kéo băng sai, chất lượng hình bị xấu,
thậm chí bị hỏng.
Đầu từ
video cũng rất dễ gãy, nên cần lưu ý kỹ thuật lau đầu từ.
2.3, Kỹ thuật dựng băng Video
Dựng băng
video (video editing) là một công đoạn trong quy trình sản xuất phim hoặc
chương trình video.
Mục đich của
việc dựng băng video là loại bỏ những hình ảnh, cảnh quay không sử dụng như
cảnh mất nét, khuôn hình xấu, chất lượng hình ảnh không chấp nhận được và sắp
xếp lại hình ảnh đã ghi được theo một trình tự mong muốn trong phim.
Trong kỹ
thuật truyền hình, không thể dùng phương pháp cắt xén và cắt dán trực tiếp các
khuôn hình như trong kỹ thuật dựng phim nhựa của điện ảnh, mà phải dùng các
thiết bị video chuyên dùng.
Trường hợp
đơn giản nhất là dùng máy ghi hình để đọc băng đã ghi, một máy thứ hai để ghi
những hình ảnh đã chọn trên một băng mới. Việc thao tác chọn các điểm đầu và
điểm cuối của từng cảnh và ghép nối các hình ảnh lại với nhau bằng cách bấm
trên bàn điều khiển, dựng băng hoặc trực tiếp trên các máy ghi hình. Nhờ các
mạch điều khiển ở trong máy, các mạch chức năng sẽ tự động điều khiển hai máy
ghi, đọc hoạt động nhịp nhàng, chính xác. Có hai chế độ dựng băng:
2.3.1, Dựng nối tiếp (Assemble
Editing)
Đây là cách
dựng đơn giản, chỉ là cách in lại các cảnh đã quay được chọn trên băng gốc sang
các băng trắng khác và sắp xếp lại theo trình tự hợp lý đúng với kịch bản phim.
Ở chế độ dựng
này, cả ba tín hiệu: tín hiệu hình, tín hiệu âm thanh và tín hiệu điều khiển
đều được ghi lại trên băng mới.
2.3.2, Dựng xen kẽ (Insert Editing)
Chế độ này chỉ thực hiện trên các máy ghi hình
có chức năng dựng xen kẽ.
Chức năng dựng xen kẽ (Insert Editing) cho
phép ta thay thế một cảnh mới vào một cảnh đã ghi trước đó (vá hình), trong khi tiếng cũ vẫn có thể giữ nguyên.
Hoặc ngược lại ta có thể thay thế một âm
thanh cũ bằng một âm thanh mới trong khi vẫn giữ nguyên hình.
Ở chế độ này, việc xác định các điểm dựng vào
và điểm dựng ra đòi hỏi phải chính xác, hai máy phải làm việc đồng bộ với nhau.
Trên băng muốn vá hình hoặc vá tiếng thì
đường tín hiệu hình hoặc tín hiệu tiếng cũ có thể bị xóa để ghi mới, song đường
tín hiệu điều khiển (CTL) vẫn được giữ nguyên.
Việc thao tác máy để dựng băng video không
khó, song đòi hỏi phải chuẩn xác để tránh xóa nhầm vào những cảnh hoặc tiếng
cần giữ.
Do vậy, phải có thời gian làm quen với từng
loại máy cụ thể và thuần thục sử dụng máy.
2.4, Âm thanh
Trong
một phim video ngoài hình ảnh, âm thanh cũng là một yếu tố quan trọng. Âm thanh
dù là lời thuyết minh, tiếng động hay đối thoại đều phải rõ ràng, dễ nghe, khớp
với hình ảnh, âm nhạc nếu dùng phải hay và phù hợp với nội dung phim.
Hầu hết các
video camera lưu động đều có gắn một micro trên thân camera. Điều đó cho phép
thu âm thanh đồng bộ với hình ảnh. Tuy nhiên, phần lớn các loại micro có sẵn
trên máy chỉ thu tốt trong phạm vi vài ba mét. Càng xa nguồn âm, chất lượng âm
thanh thu được càng kém, mặt khác chúng cũng dễ dàng thu các tạp âm, tiếng ồn
xung quanh.
Để thu được
âm thanh chất lượng tốt nên dùng một micro ngoài rồi cắm vào lỗ Exmic (micro
ngoài) trên camera hoặc vào máy ghi hình.
Có rất nhiều
loại micro khác nhau, micro định hướng, micro không định hướng, micro điện
động, micro tụ,..
Để đi ghi lưu
động nên dùng loại micro điện động vì loại này bền hơn, không cần pin cấp điên
cho micro, tránh được tình trạng tiếp xúc pin xấu hoặc khi pin yếu ảnh hưởng
đến chất lượng thu thanh.
Cũng nên chọn
loại micro định hướng nếu muốn tránh tiếng ồn xung quanh. Trong các phim ghi
hình lưuđộng nên cố gắng ghi được tiếng hiện trường đồng thời với hình ảnh.
Trường hợp cần ghi tiếng thuyết minh, lời bình luận hoặc thêm nhạc thì có thể
thực hiện trong phòng thu qua bàn pha âm (Audio Mixer) để trộn chúng với nhau
và điều chỉnh các to nhỏ cho hợp lý.
2.5, Quay phim
Người quay phim về truyền thông phải
nắm bắt được nội dung chủ đề thể hiện bằng ngôn ngữ hình ảnh trong các thể
loại.
2.5.1, Đối với thể loại có cốt truyện
Để cho câu chuyện diễn ra thật tự nhiên và
hợp lí, chúng ta phải thay đổi khoảng cách và góc độ: Có thể để camera ở cùng một vị trỉ rồi dùng ống kính thay đổi
tiêu cự lấy toàn cảnh rồi zoom vào trung cảnh, zoom vào cận cảnh, zoom vào đặc
tả. Bốn cú máy này thực hiện cùng một vị trí của camera, ví dụ: khi chúng ta
cách 200m in vào một chủ thể đang nói về vấn đề an toàn giao thông để nói và ý
thức của người tham gia giao thông, với camera ở vị trí cố định thì chúng ta
chỉ bó chặt khuôn hình quanh một chủ thể liên tục bành trướng, kích thước. Mọi
vật thể trong bối cảnh vẫn giữ nguyên các vị trí tương đối của chúng. Kết quả
là chúng ta nhìn thấy chủ thể mỗi lúc một lớn mà không có cảm giác rằng mình đang
thật sự đến gần chủ thể.
2.5.2, Khi quay những cảnh phỏng vấn
Tránh để khuôn hình cắt ngang nhân vật ở
những khớp nối tự nhiên. Nên chọn những điểm cắt ở giữa đường chân trời luôn
nằm ngang khuôn hình, theo nguyên tắc phân ba, đólà hai đường thẳng ngang trong
khuôn hình, và hai đường thẳng đứng. Nên đặt các nhân vật chính ở đường giao
tuyến này.
Khi bố cục khuôn mặt để quay phỏng vấn nên bố
trí sao cho đôi mắt nhân vật nằm ở 1/3 khuôn hình từ trên nhìn xuống, nhớ dành
khoẻng không gian để thu hình chọn mái tóc. Khi quay gương mặt trông nghiêng
này hãy bố trí nhân vật khuôn hình sao cho phía trước của nhân vật có nhiều
khoảng trống hơn phía sau.
Chú ý hậu cảnh nhất là khi quay phỏng vấn
không để gối đầu họ lên cột đèn, thân cây, nhánh cây. Chỉ cần dịch chuyển
camera là dễ dàng tránh được những hậu cảnh này.
Góc độ thu hình là tầm nhìn của camera hướng
tới chủ thể thêm vào đó để cảnh quay chuyển tiếp mượt mà dễ hiểu từ cú máy này
sang cú máy khác. Chúng ta luôn luôn nhớ những gì trước đoạn phim bạn đang quay
và những gì tiếp sau đó, dựa trên bốn góc độ camera cơ bản để sử dụng chúng:
ngang tầm mắt, góc độ thấp, góc độ cao – qua vai, đây là kĩ thuật tiêu biểu
chuẩn bị khi quay một cuộc đối thoại hai người.
Thông thường, camera hướng ống kính về phía người
trả lời qua vai người phỏng vấn, chúng ta có thể cho người xem thấy dáng của
người phóng viên, một phần gương mặt trông nghiêng của người phỏng vấn từ sau
lưng tới. Có lúc bạn muốn trình bày phản ứng của người nghe trước những lời của
người nói, trong trường hợp này bạn đổi cách quay bàng cách đảo vị trí đã nói
trên và thu hình trọn gương mặt của người nghe.
Hoặc có thể di chuyển tới lui thu hình hết
qua vai người này đến qua vai người kia. Để tránh sai trục hình ảnh bạn phải
nhớ lại đúng vị trí mà bạn đã đứng trước đây. Ví dụ: Nếu bạn khởi đầu bằng cú
bấm máy quay từ phía bờ vai bên trái của cùng nhân vật thì cứ trở lại vị trí
đó. Nếu bạn đổi qua vị trí bờ vai bên phải của cùng nhân vật đó thì khi xem lại
sẽ thấy nhân vật của bạn bất ngờ đổi chỗ. Nếu bạn muốn thay đổi vị trí camera
hay của các chủ thể thì hãy báo cho người xem biết bạn sắp làm điều đó. Cách
tốt nhất để thực hiện sự thông báo này là di chuyển camera theo chiều ngang
lưới qua của chủ thể trong khi quay, hoặc ta có thể đạo diễn cho các chủ thể,
hoặc thay đổi vị trí trong cú bấm máy trong khi camera vẫn giữ nguyên ở một
chỗ.
Trong
bố cục nhiều nhân vật nên bố trí trong hoàn cảnh thoải mái để hợp vị trí của họ
trong khuôn hình được tự nhiên. Nếu phù hợp với mục đích nội dung câu chuyện thì
chúng ta nên sắp xếp cho đầu các nhân vật ở những độ cao khác nhau và khuôn
mặt nhìn theo những hướng khác nhau,
tránh xếp nhiều nhân vật theo một hàng ngang, tất cả đều nhìn về phía camera.
Khi quay phong cảnh mà lia máy ngang, trong
lúc đang thu hình động tác đưa camera phải trơn tru, nên để camera trên chân
máy có ổ bi để đảm bảo cho chuyển động được êm và ổn định. Nếu giữ camera bằng
tay thì đứng thật vững, nếu lia máy phải chuẩn bị trước tư thế đứng. Nếu tĩnh
nên có điểm tì để giữ camera khỏi rung, cảnh lia cũng như cảnh tĩnh phải rõ
ràng, dứt khoát điểm đầu và điểm cuối, cú lia quay trong cảnh nên có tiền cảnh
để tạo chiều sâu.
Sắp xếp khuôn hình khi đổi cảnh dựng thì đổi
cỡ cảnh (toàn, trung, cận, đặc tả) đổi góc độ camera từ cú máy này sang cúmáy
khác.
Mức khác biệt giữa toàn cảnh và trung cảnh,
cận cảnh phải rõ ràng, phân biệt chứ không mơ hồ, do dự. Việc thay đổi góc độ
đột ngột quá khiến khán giả khó chịu. Đừng bao giờ đảo ngược tầm nhìn của bạn
đối với chủ thể mà không cung cấp những thông tin hình ảnh báo trước cho người
xem, là bạn đổi hướng nhìn; và đừng bao giờ dùng một thủ pháp cho hai cú máy
riêng lẻ liên tiếp nhau.
Sự liên tục của các hoạt động, các cảnh
trước, song phải nhất quán nghĩa là hãy giữ cho hành động chuyển từ cú máy quay
này sang cú máy quay khác theo một phong
thái hợp lí và rõ ràng trong một trình tự liên tục của hành động, các mấu nối
động tác ở khuôn hình sau phải liên tục ở khuôn hình trước dù khuôn hình có
thay đổi những phần chọn lọc của hành động.
Các mấu nối phải đồng trực, muốn phá trục
hình ảnh phải có cảnh truyền. Màu sắc giữa hai khuôn hình không được tương phản
lớn cũng như hành động ở cú quay trước, hành động của cú quay sau. Nếu hành
động thay đổi đột ngột thì phải nhớ thay đổi một số thông tin hình ảnh, có thể
là bằng một cú quay phụ để báo cho người xem biết trước.
2.5.3, Hướng chuyển động
Đừng làm người xem bối rối vì chuyển động của
nhân vật trong phim chuyển hướng bất thình lình. Khi một chủ thể đi ra phía
trái khuôn hình thì hãy cho nhân vật đi từ phía phải trong các cú quay sau. Cần
nhớ là khán giả chỉ thấy những gì trên màn ảnh chứ không thấy toàn bộ cảnh trí
của bạn. Người quay phim, nếu chiều hướng của chuyển động thay đổi thì bạn phải
giải thích bằng hình ảnh lí do đổi hướng.
2.5.4, Tính nhất quán của nguồn sáng
Nguồn sáng không đồng nhất cũng có thể gây
khó chịu như nhân vật đột nhiên thay đổi mà không thấy tiến trình thay đổi giữa
cảnh đêm và ngày, nên có cảnh đệm. Nếu quay phim trong nhà thì ta dễ bố trí
nguồn sáng cho nhất quán. Khi quay ngoài trời, cố gắng thu hình ở cùng giờ giấc
trong ngày với những ánh sáng chiếu cùng một hướng ở mỗi cú quay.Tất nhiên
không có thể điều khiển được thời tiết cho nên đôi lúc chúng ta phải tìm giải
pháp thoả hiệp.
2.6, Ánh sáng
Video – Camera có khả năng tạo ra chất lượng
hình ảnh tối ưu dưới nhiều tình huống ánh sáng biến đổi, các chế độ mở ống kính
tự động, kích sáng … sẽ họat động để nâng cao hình ảnh tự động hay điều chỉnh
bằng tay. Những cơ chế nói trên chỉ kiểm soát được lượng sáng chứ không quyết
định được tính thẩm mỹ của ánh sáng. Độ sáng mục tiêu đầu tiên của chúng ta là
cung cấp cho camera một lượng sáng thích hợp để tạo hình ảnh rõ, trong sáng,
chú ý đừng để thừa sáng hoặc thiếu sáng, hoặc thiếu chiều sâu. Khi chiếu sáng
phải phải tạo được khối, chi tiết bị tối và người xem không nhìn thấy được, và
tạo ra được khối và chi tiết nâng tính thẩm mỹ của ánh sáng.
2.6.1, Nguồn sáng pha trộn
Nên tránh những nguồn sáng pha trộn bởi vì nó
làm cho màu sắc của hình ảnh không đúng, còn để tái tạo lại hình ảnh chúng ta
có thể dùng kính lọc xanh kêt hợp với giấy tản sáng.
Ánh sáng bố trí thường cần bốn nguồn sáng cơ
bản: đèn chủ quang, đèn phụ quay, đèn ven, đèn phông.
2.6.2, Ánh sáng thiên nhiên
Nguồn sáng ngoài trời thông thường là mặt
trời, tính chất của nguồn sáng này thường biến đổi rất lớn từ ánh nắng trực
tiếp, tương phản sang ánh sáng hoàn toàn phân tán của bầu trời đầy mây.
2.6.3, Ngược sáng
Tránh dùng nguồn sáng ngược làm nguồn sáng
duy nhất trừ khi bạn muốn ghi hình chủ thể thành bóng đen. Nhưng ánh sáng ngược
có thể trở nên hấp dẫn khi ta dùng nguồn sáng phụ hay tấm phản quang. Mặt trời
chếch sau chủ thể cho ánh sáng xem rất đẹp. Mặt trời lúc này là ánh sáng chính
còn đằng trước chủ thể có thể dùng phản quang.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét