Có thể nói, hiện nay truyền hình là phương tiện truyền thông phổ biến nhất thế giới. Hầu hết mọi người không có cơ hội trực tiếp gặp mặt các nguyên thủ quốc gia, du hành tới mặt trăng, chứng kiến một cuộc chiến hay xem một trận thi đấu thể thao…với truyền hình, họ có được cơ hội làm những việc đó.
Truyền hình
là loại hình phương tiện thông tin đại chúng mới xuất hiện từ khoảng giữa thế
kỷ XX, nhưng đã phát triển rất nhanh chóng, mạnh mẽ và được phổ biến hết sức
rộng rãi trong vòng vài ba thập niên trở lại đây. Thế mạnh đặc trưng của truyền
hình là cung cấp thông tin dưới dạng hình ảnh (Kết hợp âm thanh và ở mức độ
nhất định cả với chữ viết) mang tính hẫp dẫn sinh động, trực tiếp và tổng hợp.
Từ đó, loại hình phương tiện truyền thông độc đáo, đặc biệt này tạo nên được ở
người tiếp nhận thông tin hiệu quả tổng hợp tức thời về nhận thức và thẩm mỹ,
trước hết là ở trình độ trực quan, trực cảm.
Bằng sự kết
hợp các chức năng phản ánh- nhận thức thẩm mỹ- giải trí với nhau, truyền hình
ngày càng thu hút được nhiều khán giả. Vai trò, vị trí, ảnh hưởng và tác động
của truyền hình đối với công chúng nói chung, quá trình hình thành và định
hướng dư luận xã hội nói riêng đã và đang tăng lên nhanh chóng.
1.Truyền hình thế giới.
Truyền hình
là hệ thống phát và thu hình ảnh và âm thành bằng những thiết bị truyền dẫn tín
hiệu từ qua cáp, sợi quang và quan trọng nhất là sóng điện từ.
Những hệ
thống truyền hình thật sự đầu tiên bắt đầu đi vào hoạt động chính thức trong
thập niên 40 của thế kỷ này, không lâu sau khi khái niệm "truyền
hình" được sử dụng với nghĩa như chúng ta vẫn hiểu ngày nay. Ngành truyền
hình thế giới đã phải trải qua một thời gian dài phát triển mới có được thành
tựu đó.
Năm 1873, nhà
khoa học người Scotland James Cleck Maxwell tiên đoán sự tồn tại của sóng điện
từ, phương tiện chuyền tải tín hiệu truyền hình.
Cùng năm này,
nhà khoa học người Anh Willoughby Smith và trợ lý Joseph May chứng minh rằng
điện trở suất cảu nguyên tố Selen thay đổi khi được chiếu sáng. Phát minh này
đã đưa ra khái niệm "suất quang dẫn", nguyên lý hoạt động của ống
vidicon truyền ảnh. 15 năm sau, năm 1888, nhà vật lý người Đức Wihelm Hallwachs
tìm ra khả năng phóng thích điện tử của một số vật liệu. Hiện tượng này được
gọi là "phóng tia điện tử", nguyên lý của ống orthicon truyền ảnh.
Mặc dù nhiều
phương thức chuyển đổi ánh sáng thành dòng điện tử đã được phát minh và hoàn
thiện nhưng hệ thống truyền hình đầu tiên vẫn chưa đủ điều kiện để ra đời. Vấn
đề cốt yếu là dòng điện tạo ra còn yếu và chưa tìm sđược một phương pháp
khuyếch đại hiệu quả. Mãi cho tới năm 1906, khi Lee De Forest, một kỹ sư người
Mỹ đăng ký sáng chế ống triode chân không thì vấn đề mới được giải quyết.
1.1, Đĩa Nipkow
Năm 1884, kỹ
sư Paul Nipkow chế tạo thành công thiết bị thực nghiệm truyền hình đầu tiên,
đĩa Nipkow. Ông đặt chiếc đĩa có đục lỗ theo hình xoáy ốc phía trước một bức
tranh được chiếu sáng. Khi quay đĩa, lỗ thủng đầu tiên quét qua điểm cao nhất
của bức tranh, lỗ thứ hai quét thấp hơn lỗ đầu tiên một chút, lỗ thứ 3 lại thấp
hơn chút nữa,… và cứ như vậy cho tới tâm bức tranh. Để thu được hình ảnh,
Nipkow quay chiếc đĩa, sau mỗi vòng quay, tất cả các điểm của bức tranh lần
lượt hiện lên. Những chiếc đĩa tương tự quay ở điểm nhận. Khi tốc độ quay đạt
15 vòng/'giây, ánh sáng đi qua hệ thống đĩa tái tạo được hình ảnh tĩnh của bức
tranh.
Thiết bị của
Nipkow được sử dụng mãi tới thập kỷ 20 của thế kỷ này. Sau đó kỹ thuật truyền
ảnh tĩnh dựa trên hệ thống đĩa Nipkow được Jenkins và Baird tiếp tục hoàn
thiện. Những hình ảnh thu được tuy còn thô nhưng đã có thể nhận ra. Thiết bị
thu vẫn sử dụng đĩa Nipkow đặt phía trước một ngọn đèn được điểu khiển độ sáng
bằng tin hiệu từ bộ phận cảm quang phía sau đĩa ở thiết bị phát. Năm 1926 Baird
công bố một hệ thống truyền ảnh tĩnh sử dụng đĩa Nipkow 30 lỗ.
Kỹ thuật này
được gọi là phương pháp quét cơ học, hay phương pháp phân tích cơ học.
1.2, Truyền hình điện tử.
Đồng thời với
sự phát triển của phương pháp phân tích cơ học, năm 1908 nhà sáng chế người Anh
Campbell Swinton đưa ra phương pháp phân hình điện tử. Ông sử dụng một màn ảnh
để thu nhận một điện tích thay đổi tương ứng với hình ảnh, và một súng điện tử
trung hoà điện tích này, tạo ra dòng biến tử biến thiên. Nguyên lý này được
Zworykin áp dụng trong ống ghi hình iconoscope, bộ phận quan trọng nhất của
camera. Về sau, chiếc đèn orthicon hiện đại hơn cũng sử dụng một thiết bị tương
tự như vậy.
Năm 1878, nhà
vật lý và hoá học người Anh, William Crookes phát minh ra tia âm cực. Tới năm
1908, Campbell Swinton và Boris Rosing, người Nga, độc lập nghiên cứu những kết
qủa thu được của hai ông lại tương đồng. Theo đó, hình ảnh được tái tạo bằng
cách dùng một ống phóng tia âm cực (cathode-rays, tube-CRT) bắn phá màn hình
phủ phóphor. Trong suốt những năm 30, công nghệ CRT được kỹ sư điện tử người Mỹ
tên là Allen DuMont tập trung nghiên cứu. Phương pháp tái hiện hình ảnh của
DuMont về cơ bản giống phương pháp chúng ta đang sử dụng ngày nay.
Ngày
13/1/1928, nhà phát minh Emst Alexanderson cho ra đời chiếc máy thu hình áp
dụng phương pháp phân hình điện tử đầu tiên trên thế giới tại Schenectady, New
York, Mỹ. Hình ảnh trên màn hình 76 mm (3 inch) xấu và không ổn định nhưng máy
thu hình vẫn phổ biến ở nhiều gia đình. Nhiều máy thu kiểu này đã được sản xuất
và bán tại Schenectady. Cũng tại đây, ngày 10/5/ 1928, đài WGY bắt đầu phát
sóng đều đặn.
1.3, Phát hình công cộng.
Trong khi đó
chương trình truyền hình công cộng đầu tiên lại xuất hiện ở London năm 1936.
Những buổi phát hình này do 2 công ty
cạnh tranh với nhau thực hiện. Marconi- EMI phát bằng hình ảnh 405 dòng quét
ngang với 25 mành hình/ giây (25 frame/s) và hãng truyền hình Baird phát bằng
hình ảnh 240 dòng quét ngang cũng với 25 frame/s. Đầu năm 1937, hệ Marconi với
chất lượng hình ảnh tốt được chọn làm chuẩn. Năm 1941, Mỹ chấp nhận chuẩn 525
dòng quét với 30 frame/s cho bộ phận giải của mình. Thánh 11/1937, BBC thực
hiện buổi phát hình ngoài trời đáng chú ý đầu tiên. Đó là buổi phát hình lễ
đăng quang của vua George VI tại công viên Hyde, London. BBC đã sử dụng một máy
phát xách tay đặt trên chiếc xe đặc biệt. Vài ngàn khán giả đã chứng kiến buổi phát
hình này.
1.4, Truyền hình màu.
Ngay từ năm
1904 người ta đã biết rằng có thể chế tạo thiết bị truyền hình màu bằng cách sử
dụng 3 màu cơ bản là đỏ, lục và xanh. Năm 1928, Baird cho ra mắt truyền hình
màu dùng 3 bộ đĩa Nipkow quét hình ảnh. 12 năm sau, Peter Goldmark chế tạo được hệ thống truyển hình màu với khả
năng lọc tốt hơn. Năm 1951 buổi phát hình màu đầu tiên đã sử dụng hệ thống của
Goldmark. Tuy nhiên, hệ thống này không thích hợp với truyền hình đơn sắc nên
cuối năm đó thí nghiệm bị hủy bỏ. Cuối cùng thì hệ thống truyển hình màu thích
hợp với truyền hình đơn sắc cũng ra đời năm 1953. Một năm sau, phát hình màu
công cộng lại xuất hiện.
Những bước
phát triển tiếp theo của nghành truyền hình thế giới chỉ là hoàn thiệt chất lượng truyền hình bằng những màn hình
lớn hơn, công nghệ phát và truyền dẫn tín hiệu truyền hình tốt hơn mà thôi.
Những màn hình đầu tiên chỉ đạt 18 hoặc 25 cách mạng (7 hoặc 10 inch) kích
thước đường chéo. Màn hình ngày nay có kích thước lớn hơn rất nhiều. Với sự ra
đời của máy chiếu, mán ảnh truyền hình có thể phục vụ những mán hình có kích
thước đường chéo lên tới 2m. Nhưng các nhà sản xuất cũng không quên phát triển
máy thu hình để nhỏ gọn, chẳng hạn một máy thu hình cỡ 3 inch (7,6 cm)
Ngày nay,
ngành truyền hình thế giới đang từng bước chuyển dần từ công nghệ tương tự (hay
tuần tự- analog) sang truyền hình kỹ thuật số (digital). Từ thập kỷ 80, hệ
truyền hình độ nét cao (high-definition television - HDTV) sử dụng kỹ thuật số
bắt đầu được nghiên cứu.
1.5, Các giai đoạn phát triển của
truyền hình thế giới
Truyền hình có mối liên hệ mất thiết
với một số loại hình truyền thống hay nghệ thuật khác như phát thanh, điện
ảnh…Tuy nhiên, chỉ sau một vài thập kỷ sơ khai, truyền hình đã tiến hành những
bước dài và thực sự tách ra khỏi các loại hình khác, trở thành phương tiện
truyền thông độc lập và có sức mạnh to lớn trong việc tạo dựng và định hướng dư
luận. Việc phát sóng truyền hình đầu tiên ở Mỹ được bắt đầu từ những năm 1930,
và truyền hình chỉ thực sự phổ biến từ những năm 1950. Những đài phát thanh như
NBC, CBS, ABC… sau khi phát triển thêm hệ thống truyền hình đã thực sự lớn mạnh
và trở thành những tập đoàn phát thanh - truyền hình tầm cỡ thế giới.
Trên thực tế,
sự hình thành và phát triển của truyền hình gắn liền với các sự kiện khoa học -
công nghệ cũng như các sự kiện chính trị - xã hội khác. Ngay từ đầu những năm
1920, người ta đã chú ý đến truyền hình do họ nhận thức được vai trò của truyền
hình trong việc tuyên truyền, quảng bá trên các mặt kinh tế, chính trị, xã
hội…có thể điểm qua một vài mốc quan trọng trong niên đại truyền hình như sau.
1887:
Heinrich Hertz (người Đức) chứng minh những tính chất của sóng điện từ.
1890-1895:
Edouart Branly (người Pháp), Oliver Lodge (người Anh) và Alexandre Popov (người
Nga) hoàn chỉnh điện báo vô tuyến.
1895:
Guglielmo Marconi (người Ý) ứng dụng những công trình nghiên cứu về vô tuyến
điện.
Tháng 3/1899:
Liên lạc vô tuyến quốc tế đầu tiên ra đời ở Anh và Pháp, dài 46 Km
1923:
Vladimir Zworykin (người Nga) phát minh ra ống iconoscop, cho phép biến năng
lượng ánh sáng thành năng lượng điện.
1929: Chương
trình phát hình đâu tiên của BBC được thực hiện từ kết quả nghiên cứu của John
Baird về quét cơ học.
Tháng 4/1931:
Chương trình phát hình đầu tiên được thực hiện ở Pháp dựa trên những nghiên cứu
của René Barthélemy.
1934:
Vladimir Zworykin hoàn chỉnh nghiên cứu về iconoscop và bắt đầu ứng dụng vào
việc xây dựng và phát sóng truyền hình.
1935: Pháp
đặt máy phát trên tháp Eiffel
1936: Thế vận
hội Berlin được truyền hình tại một số thành phố lớn.
1939: Truyền
hình Liên Xô phát đều đặn hàng ngày
1941: Mỹ chấp
nhận 525 dòng quét với bộ phân giải của mình
Trong và sau chiến tranh thế giới thứ II: Các cường quốc chạy đua gay gắt để
phát các chương trình truyền hình nhằm vận động nhân dân ủng hộ các chiến lược
quân sự và kinh tế của mình.
1948: Pháp
chấp nhận chuẩn 819 dòng quét, kết quả nghiên cứu của Henri de France.
1954: Đài RTF
phát những buổi tryền hình đầu tiên bằng điều biến tần số.
1956: Hãng
Ampex giới thiệu máy ghi hình từ (thu hình ảnh trên băng từ)
Tháng 10/1960
truyền hình trực tiếp cuộc tranh luận trên kênh truyền hình giữa 2 ứng cử viên
tổng thống Mỹ: Richard Nixon và John Kennedey
1964: Vệ tinh đĩa tĩnh đầu tiên được phóng lên
quỹ đạo mang tên Early Bird.
1965: Diễn ra
cuộc chiến về các chuẩn truyền hình màu SECAM (Pháp) và PAL (Đức) tại Châu Âu
Tháng
10/1967: Khánh thành truyền hình màu ở Pháp và Liên Xô
1969: Cuộc đổ
bộ lên bề mặt trăng của tàu Apollo 11 được chuyền hình trực tiếp qua
Mondovision.
1970: Hiệp hội viễn thông quốc tế phân chia các sóng
truyền hình centimet cho các nước và giới thiệu loại băng hình video dùng cho
công chúng.
1992: Truyền
hình kỹ thuật số trở thành hiện thực
Như vậy, có
thể thấy, lịch sử phát triển của truyền hình luôn nằm trong và cùng song hành
với lịch sử tiến bộ nhân loại. Truyền hình ngày một lớn mạnh lớn là do nhu cầu
thông tin của công chúng ngày càng cao, khoa học kỹ thuật phát triển và xuất
hiện nhu cầu được giao lưu quốc tế. Chính bản thân các vấn đề sự kiện chính
trị, xã hội cũng góp phần thúc đẩy truyền hình phải tự phát triển và phát huy
hơn nữa những ưu thế của mình, từ đó dần tạo nên những đặc trưng riêng biệt
mang tính loại hình trong hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng hiện
nay. Được thiết kế với những màn ảnh rộng áp dụng kỹ thuật hình ảnh 1125 dòng
quét ngang thay cho máy thu hình truyền thống chỉ 525 hoặc 625 dòng quét.
2, Truyền hình Việt Nam
2.1, Sự ra đời của Truyền hình Việt
Nam
Ngày
7/9/1970, chương trình truyền hình thử nghiệm đầu tiên của nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà được phát sóng. Chương trình này do Đài tiếng nói Việt Nam thực
hiện.
Trước đó,
ngày 4/1/1968, phó thủ tướng Lê Thanh Nghi ký quyết định số 01/TTG-VP cho phép
tổng cục thông tin (trực thuộc Chính Phủ) thành lập"Xưởng phim vô tuyến
truyền hình Việt Nam ". Đây là một xưởng phim nhựa 16 ly, có nhiệm vụ làm
phim thời sự tài liệu truyền hình gửi ra nước ngoài nhờ đài truyền hình các
nước xã hội chủ nghĩa phát trên sóng của họ để tuyên truyền đối ngoại, đồng
thời hướng dẫn và hợp tác với các đoàn làm phim vô tuyến truyền hình nước ngoài
đến quay phim ở Việt Nam. Năm 1971,
Chính Phủ đã
quyết định chuyển xưởng phim vô tuyến truyền hình tử tổng cục thông tin sang
Đài tiếng nói Việt Nam, tăng cường cho truyền hình một đội ngũ làm phim thời sự
tài liệu có kinh nghiệm thực tế và có một số vốn tư liệu quý.
Giữa năm 1966, Mỹ đưa truyền hình vào miền Nam. Khi nhận được thông tin này, bộ biên
tập và đội ngũ cán bộ kỹ thuật Đài tiếng nói Việt Nam quyết tâm lao vào cuộc
đua chuẩn bị cho được truyền hình để có thể tiếp quản và điều hành các Đài
truyền hình miền Nam ngay sau khi giải phóng. Nhiều đoàn cán bộ, kỹ thuật viên
được gửi ra nước ngoài học truyền hình. Sau một thời gian dài nỗ lực của cả một
đội ngũ đông đảo cán bộ, kỹ thuật viên, ngày 7/9/1970 chương trình truyền hình
đầu tiên được tổ chức trong phòng thu nhạc lớn, thường gọi là Studio M, của Đài
tiếng nói Việt Nam tại trụ sở 58 Quán Sứ. Chương trình gồm 15 phút tin tức do
phát thanh viên trực tiếp đọc trên micro và 45 phút ca nhạc.
Sau một thời
gian làm thử, tối 30 tết Tân Hợi (27/1/1971), nhân dân Thủ đô Hà Nội được xem
chương trình truyền hình đầu tiên. Chương trình ra mắt khán giả Thủ đô lần đầu
tiên, lại là đêm 30 tết nên khá phong phú: 30 phút thời sự trong nước và quốc
tế do các phát thanh viên nam nữ thay nhau đọc trước micro, thu vào camera điện
tử chuyển thẳng lên sóng, chương trình ca nhạc 30 phút dùng phương pháp
playlack; chương trình phim truyện, phim tài liệu được chiếu lên tường, dùng
camera điện tử thu lại và phát lên sóng qua máy phát.
Như vậy, ngay
từ những chương trình truyền hình thử nghiệm cũng như chương trình phát sóng
phục vụ nhân dân đầu tiên, truyền hình Việt Nam đã dùng hình thức phát trực
tiếp là do những hạn chế về mặt thiết bị kỹ thuật. Lúc đó chúng ta chưa có máy
ghi hình dùng băng từ và cũng chưa có telecine (máy chiếu phim truyền hình).
Sau khi thử
nghiệm phát sóng thành công, chương trình thử nghiệm được phát hai tối mỗi
tuần, mỗi tối 2h30' rồi tăng lên ba tối, bốn tối một tuần. Kéo dài đến tháng 4
năm 1972 khi Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không gian đánh phá ác liệt vào Hà Nội
. Trong thời gian này các phóng viên,
biên tập viên của Đài truyền hình vẫn tiếp tục làm việc nhằm ghi lại những hình
ảnh chiến đấu dũng cảm của quân và dân Thủ đô. Những bộ phim tài liệu được thực
hiện trong thời gian này như: Hà Nội - Điện Biên Phủ, Hà Nội 5 ngày đọ sức,
Tiếng Trống Trường đã giành được nhiều giải thưởng Bông Sen Bạc quốc tế và
trong nước.
Sau khi hiệp định Pari được
ký kết, các chương trình của đài THVN lại được tiếp tục phát sóng. Các chương trình
của đài lần lượt được ra mắt công chúng như: Vì an ninh Tổ quốc (27.1.1973)
(Buổi phát sóng đầu tiên của chương trình này là tối 16-8-1972), Câu lạc bộ nghệ thuật (21.2.1976) văn hoá xã
hội (21.3.1976) Quân đội nhân dân (24-4-1976), thể dục thể thao (26.5.1976),
Kinh tế (9.5.1976). Tới khi chuyển về trung tâm truyền hình Giảng Võ, từ
16/6/1976 mới phát chính thức hàng ngày.
2.2, Thời kỳ phát sóng chính thức
hàng ngày
Ngày 16/6/1976 việc khai
thác sóng chuyển từ 58 Quán Sứ về trung tâm Giảng Võ. Tại đây đã có một trung
tâm hoàn chỉnh với 3 trường quay (S1, S2, S3), tổng khống chế (master control
room), máy phát 1kW kênh 6 và cột ăngten cao 60m.
Năm 1976, Đài
truyền hình thành phố Hồ Chí Minh đã thử nghiệm phát hình màu. Một năm sau,
1977, Đài truyền hình Trung ương cũng bắt đầu phát thử nghiệm truyền hình màu
vào các sáng Chủ nhật. Từ giữa năm 1980, khi Đài Hoa sen đi vào hoạt động,
chương trình phát sóng của Đài truyền hình Trung ương xen kẽ lúc có màu, lúc
không do sử dụng nhiều chương trình màu thu từ Đài Hoa sen.
Ngày
1/8/1986, Đài truyền hình Trung ương chuyển hẳn sang phát màu hệ SECAM 3b bằng
các thiết bị chuyên dùng, từ bỏ hoàn toàn truyền hình đen trắng. Sở dĩ chúng ta
chọn hệ màu SECAM 3b vì đây là hệ màu được Liên Xô và phần lớn các nước xã hội
chủ nghĩa sử dụng.
Bắt đầu từ
ngày 1/1/1991, hệ truyền hình màu của Đài truyền hình Việt Nam chuyển từ hệ
SECAM 3b sang phát bằng hệ PAL/D/K. Sự thay đổi này là đúng đắn và kịp thời,
định hướng thống nhất cho sự phát triển mạnh mẽ của ngành trong những năm sau
đó và thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế
giới.
Ngày
30/1/1991, Chính phủ ra quyết định số 26/CP giao cho Tổng cục bưu điện thuê vệ
tinh Intesputnik truyền dẫn tín hiệu phát thanh truyền hình năm 1991. Tết âm lịch
Tân Mùi (đầu năm 1991) bắt đầu truyền chính thức bằng cách phủ sóng qua vệ sinh
chương trình truyền hình quốc gia cho các đài địa phương.
Ngày
31/3/1998, Đài truyền hình Việt Nam chính thức tách kênh VTV1, VTV2, VTV3. Đây
là một bước nhảy vọt của Đài truyền hình Việt Nam về cả nội dung chương trình
lẫn thời lượng phát sóng. VTV1 lấy nội dung trọng tâm là chính trị - kinh tế -
xã hội với thời lượng 11,5h/ngày trên kênh 9 và phủ sóng qua vệ tinh. VTV2 chú
trọng phần khoa học - giáo dục, phát sóng 13h/ngày trên kênh 9 và phủ sóng qua
vệ tinh. VTV3 là kênh giải trí - văn hoá thể thao, kinh tế, thời lượng 12h/ngày
trên kênh 22 UHF và cũng được phủ sóng qua vệ sinh. Ngoài ra, đài truyền hình Việt Nam còn có
chương trình MMDS (9 kênh) và chương trình VTV4 dành cho cộng đồng người Việt
sinh sống ở nước ngoài, phát sóng qua vệ sinh, 4 giờ/ngày. Từ 10-12-2002 kênh
VTV5 truyền hình tiếng dân tộc thiểu số của Trung ương đã phát chính thức qua
vệ tinh 3 lần/tuần và phát các 3 lần/tuần với thời lượng 2 giờ để các đài địa
phương thu lại và phát sóng phục vụ đồng bào vào thời lượng thích hợp.
2.3, Sự hình thành các đài truyền
hình địa phương
Sau khi giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đài truyền hình Sài Gòn được đổi tên thành
Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh. Đã có các đài phát lại chương trình
truyền hình ở Cần Thơ, Nha Trang, Quy Nhơn và Huế.
Từ đầu nhưng năm 1990, nhiều
địa phương như Đà Nẵng, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An… lần lượt dùng ngân sách
địa phương mua máy phát truyền hình công suất 1kW hoặc 100 W, 200W. Đặc biệt là
từ khi Đài truyền hình Việt Nam sử dụng vệ tinh để phủ sóng toàn quốc thì các
đài truyền hình các tỉnh, thành phố đã có một bước tăng trưởng về số lượng.
Đến
nay, hệ thống truyền hình Việt Nam đã có 1 Đài truyền hình quốc gia, 5 đài truyền
hình khu vực (Huế, Đà Nẵng, Cần thơ, Phú Yên, Sơn La) và 64 đài phát thanh -
truyền hình đại phương; 4 kênh truyền hình cáp hữu tuyến CATV; tổng thời lượng
200 giờ/ngày được phủ sóng 80% toàn quốc. Ngoài việc nâng cao cơ sở vật chất,
kỹ thuật, trang thiết bị hiện đại về máy móc…. Truyền hình Việt Nam chú trọng
việc đẩy mạnh đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân viên, cán bộ kỹ thuật, đặc biệt
là đội ngũ phóng viên, biên tập, tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ phục vụ cho
ngành truyền hình hiện đại phù hợp với xu thế toàn cầu hoá trong truyền thông
đại chúng thế giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét